Thế Giới Nghệ Thuật Thơ Quang Dũng-Cái Tôi Trữ Tình
6/22/2023 9:18:46 AM
diepn2 ...

1.1. Cái tôi lãng mạn
Trong thế giới nghệ thuật của nhà thơ, cái tôi trữ tình có vai trò vô cùng quan trọng. Thơ ca bao giờ cũng là tiếng nói chủ quan, nội cảm, tiếng nói “độc bạch” của cá nhân nhà thơ trước cuộc đời. Cái tôi trữ tình là trung tâm cảm nhận và phản ánh thế giới của chủ thể trữ tình cho nên nó cũng là cốt lõi, hạt nhân của thế giới nghệ thuật nhà thơ. Mỗi bài thơ ra đời chất chứa biết bao tâm tư, tình cảm, khát vọng, trăn trở, thậm chí đớn đau của nhà thơ với những vấn đề của cuộc sống. Sức hấp dẫn của thơ khởi nguồn từ tiếng thơ riêng biệt, độc đáo của cái tôi trữ tình nhà thơ thể hiện trong thơ. Với Quang Dũng, cái tôi trữ tình chính là đóng góp nổi bật nhất mà ông để lại cho cuộc đời, cho thơ ca. Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm (Dậu), sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây, trong một gia đình nho giáo làm nghề buôn bán nhỏ. Bút danh Quang Dũng chính là tên con trai đầu của nhà thơ - Bùi Quang Dũng. Ngoài ra có lúc ông còn dùng bút danh Trần Quang Dũng như một sự tri ân dành cho người bạn thơ Trần Lê Văn. Lớn lên, Quang Dũng được gia đình cho ra Hà Nội học. Ngoài học văn ông còn học vẽ, học võ. Ra đời có lúc ông còn làm cả nghề giáo học. Sau đó, ông vượt biên giới đi tìm chân lý và sau ngày Cách mạng thành công, ông gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Dù chỉ ở Trung đoàn Tây Tiến có một năm nhưng ấn tượng về những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ở Tây Tiến đã đi suốt đời ông, đi suốt thơ ông. Tháng 08/1951, Quang Dũng xuất ngũ nhưng ông vẫn tiếp tục hoạt động văn nghệ ở Liên khu III cho
đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Hòa bình lập lại, Quang Dũng làm biên tập viên báo Văn nghệ, rồi làm biên tập viên nhà xuất bản Văn học. Ông nghỉ hưu năm 1978. Từ năm 1983, nhà thơ bị tai biến mạch máu não. Sau một thời gian dài lâm bệnh, Quang Dũng đã từ trần vào ngày 13/10/1988 tại Hà Nội. Quang Dũng là một nghệ sĩ nhiều tài năng: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, sáng tác nhạc. Trong lĩnh
vực nào ông cũng có những đóng góp nhưng thành công nhất vẫn là thơ. Quang Dũng có những sáng tác đầu tay từ năm 16 tuổi. Hai bài thơ Chiêu Quân (1937) và Cố Quận (1940) là những tác phẩm đặc sắc, mang dáng dấp Thơ mới rõ rệt. Nhưng Quang Dũng chỉ thực sự được bạn đọc biết tới với bài thơ Tây Tiến (1948) - khúc tráng ca của những người chiến sĩ trẻ tuổi lên đường vì non sông đất nước - khi nhà thơ đã 27 tuổi. Sau Tây Tiến, Quang Dũng sáng tác nhiều hơn và cũng có nhiều tác phẩm nổi tiếng: Mắt người Sơn Tây (1949), Lính râu ria (1949), Đôi bờ (1948), Quán nước (1948)... Song phần lớn các tác phẩm của ông được lưu truyền bằng con đường viết tay hay truyền miệng.

Mãi đến năm 1956, ông mới xuất bản tập thơ đầu tiên - Bài thơ sông Hồng (Nxb Văn nghệ, 1956). Năm sau, ông tiếp tục có tập thơ Rừng biển quê hương (in chung với Trần Lê Văn - Nxb Hội nhà văn, 1957). Đến cuối đời, nhà thơ dồn hết tâm huyết cho ra đời tập thơ Mây đầu ô (Nxb Tác phẩm mới, 1986). Tập thơ có tính chất tổng kết cả đời thơ Quang Dũng từ những ngày Tây Tiến cho đến khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ở Quang Dũng, từ con người, cuộc đời đến thơ ca đều toát lên một chất lãng mạn thật độc đáo, hấp dẫn. Đỗ Lai Thúy cho rằng “Quang Dũng là một kẻ lãng mạn, lãng mạn đến chót mùa”. Điều ấy được hình thành từ hai nguồn ảnh học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945. Quê ông là làng Phượng Trì “khố nối ăn chơi đủ vành” (ca dao), hưởng rất lớn: quê hương xứ Đoài và sự tác động của trào lưu văn nói rộng ra là cả một vùng Sơn Tây đất đá ong khô “nơi người Việt cổ làm nương rẫy và đặt bàn chân đầu tiên khi bước xuống đồng bằng. Từ châu thổ họ đi tứ xứ, nhưng luôn nhớ về mảnh đất gốc, luôn thả hồn theo những đám mây trắng trôi về đậu đỉnh Ba Vì”. Đây chính là vùng đất đã sản sinh ra những người con tài tử như Tản Đà - nhà thơ “Tài cao phận thấp chí khí uất / Giang hồ mê chơi quên quê hương”, cũng là vùng đất đã truyền lại cho Quang Dũng dòng máu giang hồ và sự hoài niệm quê hương. Khi còn trẻ, Quang Dũng “rất mê Đường thi tam bách thủ nhưng cũng say Thơ mới như bất cứ một học sinh nào thời đó” . Ông đọc nhiều Thạch Lam, thích nhân vật Dũng của Nhất Linh nhưng có lẽ kẻ giang hồ “Rũ áo phong sương trên gác trọ” trong thơ Thế Lữ là có sức quyến rũ nhất. Quang Dũng tâm sự: “Tôi thích thơ Thế Lữ hơn cả, đặc biệt là bài Nhớ rừng, bởi chất tâm trạng sơn dã của nó”. Bài thơ Tây Tiến và cả những tác phẩm sau này của Quang Dũng chịu ảnh hưởng không nhỏ của văn học lãng mạn, đặc biệt là thơ Thế Lữ. Nhưng con người Quang Dũng, hồn thơ Quang Dũng vẫn có sự khác biệt về căn bản so với Thơ mới, bởi vì phẩm chất lãng mạn trong cá tính Quang Dũng đã được gặp gỡ Cách mạng, được chân trời Cách mạng nuôi dưỡng. “Hào khí của thời đại đã chấn động trong tâm hồn anh, và tiếng thơ riêng biệt
của anh có phần âm vang của hào khí ấy”. Những nẻo đường Tây Tiến: Sông Mã, Mai Châu, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Sài Khao... đã kích thích trí tưởng tượng của nhà thơ, đẩy cảm xúc của nhà thơ lên đến cao độ. Gian khó đến tột bậc mà hào hùng thì cũng vô cùng. Đường hành quân vất vả, thiếu trang bị, thiếu thuốc men, sốt rét rừng làm cho đoàn quân “không mọc tóc”, “xanh màu lá”, nhưng người lính vẫn lạc quan yêu đời. Sau này, hồi tưởng về những ngày tháng Tây Tiến, Quang Dũng vẫn còn lâng lâng cảm xúc: “Họ đã đem đến những nơi sâu thẳm nhất của bản đồ đất nước những âm điệu hùng hồn, những lời ca tin tưởng của
cả một dân tộc đang chiến đấu. Họ đem đến nguồn vui mới lạ cho tâm hồn của đồng bào miền núi khi được trông thấy ánh lửa trại lấp lánh trên những chiếc kèn đồng”.

Vì thế, chất lãng mạn, niềm lạc quan, yêu đời đã ngấm vào hồn thơ Quang Dũng từ hiện thực hào hùng của cuộc chiến, tạo cho tiếng thơ Quang Dũng một âm hưởng rất lạ: âm hưởng lãng mạn Cách mạng. Cái tôi ấy có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực cách mạng và tiếng thơ trữ tình tha thiết. “Yếu tố hiện thực đã tràn vào tâm hồn lãng mạn của nhà thơ, làm biến đổi chất lãng mạn đó. Đồng thời tâm hồn lãng mạn ấy lại phả lên hiện thực cái màn sương khói lung linh, làm cho sự gian lao nhòe đi, có lúc thăng hoa thành những hình tượng kỳ vĩ, độc đáo”. Cái tôi thơ Quang Dũng là cái tôi yêu đất nước, yêu dân tộc, yêu nhân dân, sẩn sàng xả thân hy sinh vì tổ quốc đồng thời lại mang tâm hồn bay bổng, diệu kỳ. Trong lao khổ ông mong tới ngày mai tươi sáng, lúc khó khăn, khi đối diện với cái chết, thơ ca vẫn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp. Trong thơ Quang Dũng, sự sống dù được trải trên nền bom đạn vẫn xanh non, tươi mát, biểu hiện sự bất diệt của đất nước, của nhân dân:

“Không một quán lều chưa phá.
Na pan, bom bướm, bom dây
Nhưng bên những hố bom
Chuối, đu đủ lại trồng quanh
Quán lều thay lá mới
Mùi lạt thơm xanh”

(Đường Mười hai)


Nhà thơ tuy đứng trong cái thực tại của ngày hôm nay còn nhiều thiếu thốn, nhưng tâm hồn luôn hướng vào ngày mai chiến thắng:

“Những mái nhà tươi cờ chiến thắng
Phố phường thu đến nắng xôn xang...
Đường qua gian khổ bao ngày tháng
Từng nghe thu lại ấm hương đời”

(Một mùa thu)


Có thể nói, cái tôi lãng mạn Cách mạng thơ Quang Dũng là biểu hiện tập trung của chủ nghĩa Cách mạng anh hùng. Tuy nhiên hòa nhập vào số đông mà không đánh mất đi bản sắc, gắn với cái ta mà vẫn nguyên vẹn cái tôi, đó mới chính là bản lĩnh của hồn thơ Quang Dũng. Sức hấp dẫn của cái tôi Quang Dũng là ở một cái tôi mang nét tráng sĩ cổ điển, được thể hiện trong bối cảnh thời đại mới. Trong cuộc đời, người ta chú ý nhiều đến “vóc dáng trượng phu lừng lững” của nhà thơ. Trong thơ ca, âm hưởng lãng mạn thơ Quang Dũng được thể hiện ở sự cảm thụ cuộc sống một cách cá nhân, riêng tư, mang hơi hướng phiêu lưu, tài tử. Nhiều người đọc ở Tây Tiến và nhiều bài thơ khác “chất phiêu lưu”, “ưa thám hiểm”, chất “đường rừng” trong thơ. Người lính đến với Tây Tiến như đến với một cuộc thám hiểm để khám phá thiên nhiên mà cũng là khám phá chính tâm hồn mình. Tâm hồn họ hít thở không khí của Tây Tiến, cảm nhận Tây Tiến và hòa nhập vào Tây Tiến. Những bức tranh thiên nhiên hoành tráng, thăm thẳm, ngút ngàn đã hút lấy tâm hồn họ:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

(Tây Tiến)


Cuộc chiến những như thế, rõ ràng không chỉ là ta và địch, mất và còn, mà còn là cuộc khám phá. Thế nên mới có những sửng sốt “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”, những bâng khuâng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, những “mộng” và “mơ” - mộng “qua biên giới” và mơ về “dáng kiều thơm”. Người lính Tây Tiến cũng không lẫn vào số đông những người lính khác trong thời đại mà cái “chung”, cái “đại chúng” được đặt lên làm tiêu chí hàng đầu. Họ là những con người anh hùng, hiên ngang nhưng vẫn mang sắc thái riêng của mình: từ dáng hình (“không mọc tóc”, “dữ oai hùm”, “xanh màu lá”) đến tâm trạng (“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Cho đến cái chết cũng rất tài tử: “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Chính điều đó tạo nên cho thơ Quang Dũng một dấu ấn riêng, một sắc thái riêng “hào hoa và tráng lệ”. Nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ gọi đó là “khẩu khí anh hùng” và “nó như là một âm điệu, là sản phẩm của một thời, nếu thiếu nó gần những như là thiếu đi nét đặc trưng của giai đoạn”. Quang Dũng yêu những hình ảnh kỳ vĩ, lớn lao, có hứng thú với những bức tranh “xanh thắm, bi tráng, ngút ngàn”. Thơ ông là thơ của những núi cao, rừng thẳm, vực sâu, mưa nguồn, thác dữ, cọp trêu người:

“Một rừng già trong bão táp
Hiên ngang che chở nắng mưa dân tộc
Ngàn vạn dòng khe tung nước trắng
Ngàn bản hùng ca reo chiến thắng”

(Rừng)


Tình cảm trong thơ ông cũng phải là những cảm xúc mãnh liệt, khi đau đớn đến tột cùng, lúc lại sôi nổi, tự hào:

“Thôi nhé Miền xuôi! Thôi tạm biệt
Cống Chéo - Đồng Xuân thề một chết
Hàng gai - tay bỏng trục ba càng
Đất cũ Thăng Long người lẫm liệt”

(Những làng đi qua)

Để thể hiện điều đó, Quang Dũng đã sử dụng rất thành công bút pháp đối lập trong miêu tả cảnh vật và thể hiện cảm xúc. Nhiều câu thơ trong Tây Tiến, Mắt người Sơn Tây, Những làng đi qua đã đạt đến độ cổ điển bằng cách miêu tả như thế. Viết về cái gian khó buổi đầu Cách mạng, có gì gợi hơn bằng những câu thơ thế này:

“Nhớ buổi Trung Đoàn ta ra đi
Tháng Chạp màn sương trùm đất nước
Gió mùa chết héo mạ non xanh
Sương muối thấm vào bao đạn ướt”

(Những làng đi qua)


Nhưng chính sự gian khó ấy mới là cái nền cảm xúc để tô đậm cái hào hùng thiêng liêng của dân tộc:

“Ta đi!
Tháp đứng nghiêm hồ lạnh
Hoàn Kiếm đêm đêm giặc rụng rời
Màu đỏ sao bay về đỉnh tháp
Chiến hào xuân đến tiếng ca vui”

(Những làng đi qua)


Cái tôi lãng mạn Cách mạng thơ Quang Dũng là một cái tôi trữ tình giàu mơ mộng, thích tưởng nhớ. Có thể nói, thơ ông là cả một miền thương nhớ. Nỗi nhớ, niềm thương cứ bàng bạc tỏa ra trong khắp các bài thơ, các câu thơ của ông tạo thành một thứ không gian riêng, rất đặc biệt: không gian của tình thương nhớ. Chỉ 47 bài thơ, cũng đã 47 lần nhà thơ dùng chữ “nhớ”, 12 lần dùng từ “thương”. “Thương” và “Nhớ” đi về trong thơ Quang Dũng như một nỗi ám ảnh, với rất nhiều cung bậc khác nhau. Từ những nỗi nhớ cụ thể: “Nhớ buổi Trung Đoàn ta ra đi”, “Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói”, “Bên này đất nước nhớ thương nhau”, “Em đã bao ngày em nhớ thương”, “nhớ mẹ ngày xưa”, “nhớ mái rừng xanh”, “nhớ sông quê”, “nhớ mây làng về trưa”, “nhớ bạn”, “nhớ quê nhà”, “nhớ về đất nhỏ Sơn Tây”... đến những nỗi nhớ mông lung trừu tượng: “Chiều ấy em về thương nhớ ai?”, “Bên này em có nhớ bên kia?”, “Buồn nhớ thương ai lòng hiu hiu”, “Tôi gửi niềm thương nhớ”, “ Tối gặp nàng như gặp nhớ thương”, “Có một hương gì gây nhớ thương”... Cùng với nỗi nhớ là những định ngữ miêu tả nỗi nhớ: “nhớ thầm”, “nhớ chơi vơi”, “thương nhớ ơ hờ”, “buồn nhớ thương ai lòng hiu hiu”... Riêng với Tây Tiến, nỗi “nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” - cái nỗi nhớ miên man, bồng bềnh, mông lung mà lại da diết, sâu thẳm đến tận tâm can đã trở thành nỗi ám ảnh, day dứt bao nhiêu thế hệ bạn đọc bởi tính độc đáo và cực kì chân xác của nó.

Trong thơ Quang Dũng, từ ghép đẳng lập “nhớ thương” xuất hiện với tầng số khá cao (12 lần/ 47 bài). Với nhiều người, “nhớ” và “thương” bao giờ cũng có nét nghĩa khác nhau, nhưng với Quang Dũng, nhớ và thương dường như chỉ là một, hòa quyện, trộn lẫn vào nhau trong một nguồn cảm xúc, trong nhớ có thương, trong thương có nhớ. Vì thế, có khi ông dùng hai chữ “thương nhớ”, có lúc lại dùng “nhớ thương”, không phân biệt: “Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai”, “Bên này đất nước nhớ thương nhau”, “Chiều ấy em về thương nhớ ai”-, “Tôi gửi niềm thương nhớ”... Cùng với nỗi nhớ, niềm thương là một hệ thống thời gian nghệ thuật thích hợp để biểu hiện cái tôi trữ tình mơ mộng và giàu cảm xúc. Thơ Quang Dũng thường có hai kiểu thời gian: thời gian nghệ thuật chiều tối và thời gian nghệ thuật kỉ niệm, hồi tưởng.

Nếu cái tôi trữ tình Quang Dũng thích mơ mộng, hay tưởng nhớ thì thời gian nghệ thuật trong thơ ông cũng là thời gian của cái gợi về, nhớ về. Trong cuộc đời, con người thường sống với thời gian hiện tại, nhưng tâm hồn ít khi chịu đứng yên trong cái hiện tại. Khi vui buồn, lúc cần một điểm tựa họ thường hướng tới tương lai hay chìm đắm vào quá khứ. Thơ kháng chiến là thơ của thời gian ngày mai tươi sáng, rực rỡ, tốt đẹp. Nhưng với riêng Quang Dũng, người chịu ảnh hưởng khá sâu của Thơ mới, thời gian nghệ thuật lại là thời gian hồi tưởng, thời gian kỉ niệm. Kiểu thời gian này xuất hiện trong 24/ 47 bài thơ Quang Dũng (tỉ lệ 51%). Thế giới thơ ông nhiều khi là thế giới của quá khứ, của “nhớ về” và “trở về”: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” (Tây Tiến), “Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn” (Mắt người Sơn Tây), “Ngày ấy ra đi người hẹn núi / Bây giờ đất nước đã hồi xuân” (Nhớ một bóng núi), “Ngồi đây vời tưởng đường quê hương / Lúa đã xanh xanh mấy nẻo làng” (Thu)... Đây là thời gian rất hợp cho việc thể hiện cái tôi lãng mạn Quang Dũng. Bởi vì cuộc sống được miêu tả qua lăng kính của nỗi nhớ và thời gian kỷ niệm bao giờ cũng đẹp hơn, cảm xúc hơn. Con người trong quá khứ là những con người đẹp:

“Các cô hàng xén ngày xưa
Gương tròn bỏ túi
Tay giắt hoa nhài
Hay ngậm ngùi xem Nhị Độ Mai
Gấp trang sách thương đời Cúc Hoa”

(Những cô hàng xén)

Tình yêu trong quá khứ càng lung linh kỷ niệm:
“Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa...”

(Không đề)

Tuy nhiên, kiểu thời gian quá khứ, thời gian kỷ niệm trong thơ Quang Dũng không hoàn toàn giống với kiểu thời gian quá khứ trong Thơ mới. Bởi vì nếu các nhà Thơ mới tìm đến quá khứ như một sự chạy trốn, dễ rơi vào bế tắc thì Quang Dũng lại tìm được một điểm tựa thời đại vững chắc để bộc lộ tâm hồn khoáng đạt của mình.

Thời gian chiều tối cũng góp phần đáng kể vào việc xây dựng cái tôi lãng mạn Quang Dũng. Trong thơ ông, buổi chiều xuất hiện ở 14/47 bài, buổi tối xuất hiện ở 16/47 bài. Buổi chiều là khoảng thời gian con người có dịp để suy ngẫm về cuộc đời và bâng khuâng, tưởng nhớ. Ca dao xưa có những câu rất hay về buổi chiều:

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

Quang Dũng cũng góp cho những câu thơ về buổi chiều một nỗi nhớ sâu lắng:

“Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì”

(Mắt người Sơn Tây)

hay một cảm giác miên man:

“Nhặt gốc tre khô
Ta nhom ấm nước
Chiều từ đâu...
Mà lạnh đến từ đâu?”

(Thu quê ai)


Quang Dũng có hứng thú với thời gian “đêm”, đặc biệt là những đêm trăng. Có khi đó là những đêm vui, đêm ấm tình đồng đội: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” (Tây Tiến), “Lều trại bay tro, đêm lửa trại” (Những làng đi qua), “Lửa bếp hồng thêm, người đến thêm / Chuyện vui chiến dịch kể thâu đêm” (Ngựa). Nhưng cũng có khi là những đêm buồn, đêm của nỗi nhớ thương, lưu luyến:

“Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ”

(Đôi bờ)


Có thể nói, về cơ bản, cái tôi Quang Dũng tiêu biểu cho kiểu cái tôi lãng mạn Cách mạng thời kháng chiến. Nhưng cái tôi ấy cũng có những nét độc đáo, khác biệt so với các nhà thơ cùng thời: cái tôi Quang Dũng mang chất tráng sĩ cổ điển trong cách cảm nhận cuộc sống, miêu tả những hình ảnh kỳ vĩ, lớn lao đồng thời là một cái tôi giàu mơ mộng, thích tưởng nhớ, thể hiện ở việc tập trung miêu tả nỗi nhớ cũng như cách xây dựng không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật riêng. Chính điều đó làm nên dấu ấn của cái tôi Quang Dũng trong thơ kháng chiến.
1.2. Cái tôi bình dị và hào hoa
Quang Dũng là người rất bình dị trong cuộc đời. Nhiều người bạn nhận xét về ông: “Dũng mà rất hiền, rất lành (...), chữ lành để nói về ông mới thật sự đủ nghĩa và thỏa lòng”. Lối sống của ông thật giản dị. Ông biết tìm thấy niềm vui và sự thỏa mãn tột cùng trong những cái bình dị, đơn giản nhất. “Đặc sản” khoái khẩu nhất của Quang Dũng, như nhà văn Thanh Châu nhớ lại là “khoai lang hàng bà cụ phố Tuệ Tĩnh, kẹo vừng ông lão ngồi cửa chợ Hôm, quán cơm đầu ghế bất kể chợ nào, quán nước chè tươi...”. Quang Dũng có ngoại hình cao lớn “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” nhưng đi đâu ông cũng như muốn thu mình lại. Là người thuở nhỏ quen khá giả nhưng ông lại học được tác phong sống rất bình dân, cực kỳ dễ hòa đồng ở mọi nơi, mọi lúc. Ông không bao giờ muốn trông khác những người xung quanh. “Sự nổi danh, sự lưu danh có phần xa lạ với Quang Dũng lúc sinh thời (...). Ông sống, theo đúng cả nghĩa đen của nó không phải với cao lương mĩ vị mà với mắm muối, tương cà, lều tranh quán lá, kể cả sự chịu đựng cái đói mà không phải nhiều người trong chúng ta đã trải”. Ông sống gần gũi, hòa lẫn vào nhân dân lam lũ, trong bình dị đời thường. Thậm chí ông có thể hòa đồng, chia sẻ cả với những người ăn mày chùa Bà Đá (Hà Nội).
Quang Dũng sống bình dị nhưng trong cái bình dị ấy đã ẩn chứa chất hào hoa phong nhã của một tâm hồn nghệ sĩ. Tên tuổi Quang Dũng gắn với những thi phẩm Tây Tiến, Mắt người Sơn Tây, Những làng đi qua, Đường trăng, nhưng ông cũng là tác giả bài hát “Ba Vì mờ cao” với những nốt nhạc sâu lắng, tác giả của những tập truyện kí với phong thái riêng khó lẫn, đồng thời lại hóa thân thành một họa sĩ trong những bức tranh phong cảnh. Con người đa tài, đa tình ấy thích “giang hồ”, thích phiêu lưu. Quang Dũng hào hoa và cao thượng trong tình yêu. Cuộc đời lưu lạc, được nhiều người đem lòng yêu thương nhưng ông vẫn giữ trọn lời thề thủy chung với mối tình đầu, còn mối tình không thành thì xin hãy “giữ trọn tình người cho đẹp”...
Trong thơ Quang Dũng, chất hào hoa và chất bình dị hòa quyện làm một, nhiều khi không thể phân biệt. “Quang Dũng viết hồn nhiên và rất thật. Dường như anh chưa bao giờ dấu mình và càng không bao giờ dối mình trong thơ”. Thơ ông bình dị trong hình ảnh đời thường như “muối vừng”, “canh rau đay”, “chuối vườn”, “tiếng sung rơi”; lại cũng giản dị, chân thật trong những cảm xúc, từ sự dấn thân đầy hào khí của người trai trẻ: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...” đến những niềm vui, nỗi buồn của người lính trong Lính râu ria, Quán nước. Sau này, khát vọng vượt qua mọi không gian chật chội của cuộc đời trong Mây đầu ô cũng là điều rất thật. Có thể nói thơ ông “là thứ thơ mà người ta gọi là tự phát (Spontané), cứ như anh không hề cố ý làm thơ” (Ngô Quân Miện). Nhưng cũng chính vì thế, Quang Dũng nhiều lần làm người đọc xúc động với tình cảm trực giác, đầy rung cảm tinh tế của những câu thơ. Tâm hồn ông nắm bắt rất nhạy từ một áng mây, một mùi hương, một làn gió, một màu sắc, một âm thanh, một nỗi niềm để rồi lại phả vào đó cái nhìn của một họa sĩ và những thanh âm của một nhạc sĩ:

“Gió heo nổi sớm, nắng thu về
Chuồn chuồn cánh mỏng lại bay đi
Rỡn từng ngọn cỏ may khô úa
Cánh nhạn tung trời thêu biệt ly”

(Thu)


Thơ viết về mùa thu xưa nay nhiều. Nhưng Quang Dũng lại một lần nữa khiến tâm hồn ta xao xuyến trước những chi tiết thật tế vi mà cũng thật gợi cảm. Chất liệu không mới (gió heo may, nắng thu, cỏ may, cánh nhạn), cảm xúc cũng không lạ lẫm nhưng những câu thơ dường như vẫn có sức hút kỳ lạ. Từ một cánh chuồn chuồn nhỏ bé, mỏng manh trong gió heo may, trong nắng thu mà gợi lên cả một nỗi buồn, sự chia ly... Quang Dũng còn là một họa sĩ cho nên thơ ông thấm đẫm chất họa. Với “con mắt nghề nghiệp” tinh nhạy, ông phân biệt được ranh giới giữa các sắc độ đậm nhạt khác nhau mà mắt thường không nắm bắt được:

“Nắng nửa sông xa mờ khí núi
Cánh hồng nhạt nhạt mây phiêu lưu”

(Thu)

Ở những bức tranh nhiều màu sắc, ông phối màu thật “chuẩn”:

“Sim mua tím đồi
Quanh quanh đường đỏ...
Mờ mây Tam Đảo
Sẫm dáng Ba Vì
Đồi nhung loang nâu
Nương xa sém cháy
Róc rách suối len
Cuộn tròn trong vắt...
Bậc thang ruộng gặt
Đá ong phơi vàng”

(Bắt tép kho cà)

Những câu thơ đọc lên đã thấy cả một vùng trung du tươi đẹp với các màu sắc đa dạng: tím, đỏ, nâu, vàng cùng nhiều thuật ngữ hội hoa: mờ, sẫm, nhung, loang nâu, sém cháy. Người ta thường nhắc đến chất nhạc, chất họa trong thơ Quang Dũng nhưng ít ai biết với hương thơm, ông cũng là người có biệt tài trong cảm nhận. Chẳng hạn cô hàng xén được Quang Dũng miêu tả:


“Mái tóc em còn vương hương bưởi
Chân nhẹ nhàng còn dính phấn hoa”

(Những cô hàng xén)


Cách miêu tả thật tài tình. Người con gái đã đi qua nhưng mái tóc vẫn vương hương bưởi, phấn hoa vào không gian và vào tâm hồn thi sĩ. Cùng với “Những cô hàng xén răng đen / Cười như mùa thu toa nắng” của Hoàng Cầm, có lẽ đây là một trong những câu thơ hay nhất về hình ảnh cô hàng xén ngày xưa. Cái tôi bình dị và hào hoa của Quang Dũng còn thể hiện ở chỗ thơ ông dường như không có dấu vết của sự cầu kỳ, gọt giũa nhưng nhiều lúc vẫn đạt đến độ thăng hoa. Nhiều lúc ông đưa cả cái xù xì, khắc nghiệt của hiện thực vào thơ. Chẳng hạn:


“Bàn tay như rễ cây
Bộ râu như bàn chải”

(Lính râu ria)

“Hàng của em chai lọ xác xơ nghèo
Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá”

(Quán nước)


Nhưng thơ không vì thế mà rơi vào tầm thường khô cứng, trái lại đó là những chi tiết gây xúc động lòng người nhất. Cái tôi Quang Dũng hào hoa trong cách cảm nhận đời sống và khám phá vẻ đẹp thiên nhiên. Với bất kỳ phong cảnh thiên nhiên nào, Quang Dũng cũng có những cách rất riêng để nắm bắt cái thần của cảnh vật. Nhiều khi đó chỉ là những nét phác họa với một vài chi tiết nhỏ, ông làm người đọc giật mình bởi cái chất tinh tế, thần tình trong miêu tả cảnh vật. Chẳng hạn:


“Cuối năm trên đường đi Bố Hạ
Tháng chạp mùa cam lửa đốm vườn
Bãi sỏi quanh co dòng nước chậm
Cheo leo cầu tạm vắt sông Thương”

(Bố Hạ)

Quang Dũng bước vào cuộc chiến cũng với cái chất hào hoa vốn có sẵn trong tâm trí một lớp người trai trẻ vào Cách mạng, “cái chất hào hoa của người Hà Nội, và của cả xứ Đoài lại chính là cái làm nên men say và chất lãng mạn mà con người rất cần cho những cuộc ra đi, những cuộc lên đường”:

“Tôi hành quân lên đường
Ngày tháng nhớ chia ly
Đuôi mắt vời trông nếp áo
Em còn nghe tiếng hát
Tiếng báng súng chạm vào ca sắt
Và cánh sao bay trong lá quốc kỳ”

(Đường chiều thứ bảy)


Vì thế, cái hào hoa trong kháng chiến tỏa ra thành những “mơ” và “mộng”, những bâng khuâng, mong nhớ, đợi chờ đồng thời cũng trở thành những khát khao dấn thân, khát khao chiến đấu. Cái tôi ấy bước vào cuộc chiến không chỉ với súng, đạn mà còn có cả tâm hồn mơ mộng khác thường và những cảm nhận thật đẹp, thật tinh tế về cuộc sống. Cái chết của người lính cũng là sự thể hiện cao nhất cái tôi hào hoa trong chiến đấu:

“Áo bào thay chiếu anh vê đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đó không chỉ là cái chết mà còn là sự lưu danh vào bất tử, sự hòa nhập vào cái vĩnh hằng của thiên nhiên tổ quốc...
Tóm lại, cái tôi Quang Dũng có sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp chân chất, dân dã với vẻ đẹp tài hoa tinh tế. “Nhiều bài thơ anh, do vậy, đạt đến độ chân tài” như cách nói của nhà nghiên cứu Mai Hương.
1.3. Cái tôi lãng du, yêu tự do và tuổi trẻ
Quang Dũng có lẽ là nhà thơ mang trong mình “dòng máu lãng du vào loại bậc nhất thi đàn đất Việt thế kỷ hai mươi”. Cái nỗi niềm Chiêu Quân ly xứ đã ám ảnh thơ ông ngay từ những bài đầu tiên:

“Tuyết lạnh che mờ trời Hán quốc
Tỳ bà lanh lảnh buốt cung thương
Tình tang năm ngón sầu dâng lệ
Chiêu Quân sang hồ, xừ hồ sang”

(Chiêu Quân)


“Bản chất của ông là mây, ở góc độ phiêu bồng”. Nhưng đó phải là một thứ mây lành, áng mây có thể đem lại một chút dịu mát trong tâm hồn hay xua đi những u tối, buồn bực trong lòng con người.

Áng mây đó ưa phiêu du, tài tử, thích đi ngao du sơn thủy, thích “lang thang sống một cuộc đời Bôhêmiêng”. Đi chơi với Quang Dũng là một cái thú, là một thứ ma lực đã ngấm vào máu người nghệ sĩ như chất men say. Ông hăm hở đi, mải miết đi, đi bất cứ đâu, miễn là thoát ra ngoài không gian chật hẹp tù túng của cuộc đời. Khi còn trẻ, lúc mới rời khỏi ghế nhà trường, nhà thơ không trở thành công chức mà bỏ nhà ra đi đánh đàn kéo nhị cho một gánh hát để được lang thang, phiêu bạt. Sau đó, để thực hiện chuyến “viễn hành” đi về phương Nam, nhà thơ đã cùng người bạn thuê một chiếc xe trâu để du ngoạn và sống bằng nghề vẽ tranh. Giữa đường, trâu bệnh mà chết, người bạn bỏ về, Quang Dũng tiếp tục nhảy tàu vào Nam... Cuộc phiêu lưu “xê dịch” đã có lần đưa nhà thơ đến tận miền đất Vân Nam, Trung Quốc. Thế nhưng trước Cách mạng tháng Tám, với Quang Dũng có phiêu lưu, có xê dịch đến bao nhiêu vẫn không thỏa, vẫn là “quẩn quanh”. Bởi vì, những chuyến đi ấy trước hết là đi tìm lí tưởng, đi tìm lẽ sống. Mà lẽ sống ấy nào phải ai cũng dễ dàng tìm được trong cái “thời đại bao lần khô nước mắt” của xã hội nước ta trước Cách mạng.
Cho nên ta có thể hiểu được Quang Dũng say mê như thế nào khi đã hòa nhập được với hơi thở của cuộc kháng chiến. Ông đi bất cứ nơi đâu “dù là đến một thắng cảnh như Chùa Thầy hay Tây Phương, Yên Tử - không đi xa được thì đi gần, đến Trấn Quốc - Hồ Tây, Chèm Vẽ, bãi giữa sông Hồng, Ba La Bông Đỏ...”; đi bất cứ khi nào: “máy bay giặc Pháp bắn ban ngày thì anh đi ban đêm, đi suốt đêm”. Ông đi để hiểu biết nhiều mặt về đời sống kháng chiến, để tìm chất liệu và thi hứng cho thơ ca và cũng để “thưởng thức sự sảng khoái của việc đi, thưởng thức cái đẹp của người, của cảnh, cái ngon của món ăn, món uống ở các miền đất nước”. Có thể thấy, nếu như trước Cách mạng, đi với Quang Dũng là sự “kiếm tìm” thì sau Cách mạng, đi với Quang Dũng là một sự “thỏa chí” - cái ý chí khát khao đã tìm được nguồn sống, hồn thơ đã tìm được đôi cánh chắp cho bay cao.
Quang Dũng còn có một cách “đi” khác, thi vị hơn, đó là “đi” thưởng ngoạn trong thơ. Thơ ông có rất nhiều địa danh, của những vùng miền khác nhau là vì vậy. Ông hiện mình lên trong thơ có khi là một “Cánh chim lang thang / Lối về miền mây”, có khi lại chính là những đám mây lang thang, trôi bồng bềnh trên bầu trời:

“Mây trắng lang thang
Gió đuổi bời bời phố chật”

(Mây đầu ô)


Thơ Quang Dũng nhiều lần nhắc đến hình ảnh của “mây” (21 lần). Mây với Quang Dũng là biểu tượng của tự do, của lãng du. Phần nhiều trong đó là những đám mây trắng - hình ảnh của sự thanh cao và cũng là biểu tượng của cõi tự do trường cửu: “Mây trắng xưa nay về tụ họp / Mây một phương Đoài về tụ họp” (Gửi Sơn Tây), “Tóc anh đã thành mây trắng” (Không đề), “Ba Vì tảng trán xanh / Thức với mây Đoài trắng xóa” (Bất Bạt đêm giao quân). Quang Dũng lang thang khắp cuộc kháng chiến cùng với những đám mây để nhớ về một cõi mây trắng xứ Đoài.
Bài thơ Mây đầu ô tuy chưa phải là sáng tác hay nhất của Quang Dũng nhưng nhiều người viết không ngần ngại coi đó là sáng tác tiêu biểu nhất cho hồn thơ Quang Dũng. Điều đó có được là bởi cái chất lãng tử, tài hoa nhưng thật sâu lắng mà Quang Dũng thể hiện trong thơ. Bài thơ được sáng tác năm nhà thơ đã ngoài năm mươi tuổi nhưng vẫn giữ nguyên được cái khát vọng bừng bừng trong tâm hồn những người trẻ tuổi. Nhà thơ bước vào tuổi xế chiều vẫn thấy mình trong “Những lớp người hai mươi tuổi”, vẫn hòa mình vào “Những gã hai mươi mùa xuân”. Cho nên phố phường như chật chội hơn, như bực tức, như không thỏa mãn được hồn mây lang thang:


“Mây ở đầu ô mây lang thang
Ôi! Chật làm sao
Góc phố phường
Mây ở đầu ô
Hẹn những chân trời xa lạ...”

Đó không phải là thứ mây hờ hững, lững lờ. Hồn mây Quang Dũng phải là thứ mây mãnh liệt, đầy khát khao. Đám mây của “tảng trán xanh Ba Vì” đó đã dám vượt qua mọi biên giới hạn hẹp của cá nhân để đến với cuộc đời cao rộng. Đám mây khi xưa đã vượt qua sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Đin nay vẫn mê mải với:

“Bụi đỏ. Bụi vàng. Trung du báng cọ
Tay sém ngấn mặt trời”

Hồn mây Quang Dũng mãnh liệt, trẻ trung nhưng vẫn giữ được nét mềm mại:

“Mây mùa thu
Lọt qua trời hẹp ngõ
Lướt nhanh qua mái ngói ba tầng...”

(Mây đầu ô)


Những câu thơ quả có sức gợi lớn. Nó đưa hồn người đọc vào một thế giới lâng lâng, huyền ảo của tiếng nhạc, của giấc mơ. Ta cảm nhận được ở đó cái khát vọng của một thời trai trẻ vượt qua những “trời ngõ hẹp”, những “góc phố phường” chật chội để đến với bầu trời xanh thẳm. Mây đầu ô đó chính là tâm hồn Quang Dũng, thật phóng túng, thật sảng khoái, mãnh liệt mà cũng thật mềm mại, bay bổng.

Quang Dũng đã tạo cho thơ mình một thế giới phiêu diêu, bàng bạc, thế giới của sự viễn du. Nhiều bài thơ viết về một địa danh cụ thể với không gian và thời gian cụ thể nhưng cái hiện lên lại là một cảm giác bồng bềnh, hư ảo:

“Đêm nay đêm Bạch Hạc
Ta lại vào nhà ai
Nghe sông Lô cuộn nước
Dềnh lên suốt đêm dài”

(Đêm Bạch Hạc)


Đêm Bạch Hạc cũng là một đêm thoáng qua trên đường đời, đêm mất ngủ, thao thức lắng nghe âm thanh của thiên nhiên, muốn hòa tâm hồn với thiên nhiên. Cái tôi Quang Dũng lãng du nên cũng yêu tuổi trẻ vô cùng. Với cuộc đời mỗi con người, tuổi trẻ bao giờ cũng là thời gian đẹp nhất, nhưng với tâm hồn thi nhân, tuổi trẻ càng có ý nghĩa hơn. Đó là tuổi của tình yêu, của khát vọng và sức sống tâm hồn. Quang Dũng viết về tuổi trẻ bằng rất nhiều cách gọi khác nhau: “đời xanh”, “đời thanh xuân”, “tuổi hai mươi”, “buổi hoa niên”, “tuổi còn xanh”...
Nhà thơ yêu tha thiết tuổi trẻ của chính mình và tuổi trẻ của cuộc đời. Tuổi trẻ với Quang Dũng được tính từ lúc con người hai mươi tuổi. Hình ảnh “tuổi hai mươi” được nhà thơ nhắc đến 7 lần trong các sáng tác của mình. Tuổi hai mươi là tuổi bắt đầu tình yêu: “Em tuổi hai mươi / Yêu anh hào hiệp” (Không đề), cũng là tuổi đi tìm lý tưởng: “Hai mươi tuổi mộng êm đềm / Ta mang trong trắng đi tìm thanh cao” (Vườn ổi), tuổi của sức sống mãnh liệt: “Những gã hai mươi mùa xuân / Từ đâu thổi vào thành phố” (Mây đầu ô). Cho nên, con người tiêu biểu của quê hương cũng là người thanh niên hai mươi tuổi: “Cô bí thư Tòng Bạt tuổi hai mươi” (Ba Vì đón Bác). Ngay cả đến người lính viễn chinh bỏ mình trên đất nước ta cũng còn rất trẻ: “Hai mươi tuổi trẻ nằm đây / Lòng đất Việt Nam hiền hậu” (Chabbi - Chabbi). Nhà thơ muốn gửi gắm cuộc đời mình vào vĩnh cửu với tình yêu và tuổi trẻ để “Em mãi là hai mươi tuổi / Ta mãi là mùa xanh xưa” (Không đề). Đó là khát vọng lưu giữ mãi cái thanh cao, trong trẻo mà đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ cũng là khát vọng dấn thân, khát vọng lên đường của một lớp người trẻ.
Sau này, trong thơ kháng chiến cũng xuất hiện những vần thơ xúc động về tinh thần hy sinh của tuổi trẻ. Nhắc đến điều này, ta không thể không nhớ đến cái trăn trở của Thanh Thảo: “Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình / Những tuổi hai mươi thì làm sao không tiếc / Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì có còn chi tổ quốc?” (Những người đi tới biển), cái day dứt của một nhà thơ xứ Nghệ “Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ / Đáy sông còn đó bạn tôi nằm / Có tuổi hai mươi thành sóng nước / Vỗ yên bờ, mãi  mãi ngàn năm”. Nhưng cái tinh thần tự nguyện hiến dâng vừa không chút suy tính vừa pha chút lãng tử trong Tây Tiến mới thật sự là bản hùng ca của một lớp người buổi đầu ra trận:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đó là lời tâm nguyện của bao nhiêu thế hệ lại cũng chính là vẻ đẹp của cái tôi Quang Dũng thật hào hiệp, đại nghĩa và cũng thật cao cả.

Xem thêm bài viết tương tự tại https://khotangkienthuc.edu.vn/bai-viet/the-gioi-nghe-thuat-tho-quang-dung-hinh-tuong-dat-nuoc-va-con-nguoi-4rgaoh7dk9