* Luật sư.
Là người hoạt động chuyên nghiệp tham gia trong một đoàn luật sư theo quy định của pháp luật. Điều 2 luật Luật sư năm 2006 cũng đưa định nghĩa: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)”. Để trở được công nhận là một luật sư thì cá nhân phải đáp ứng các điều kiện như: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư, đã được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một đoàn luật sư.(Điều 10 và điều 11 luật Luật sư năm 2006).
* Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
BLTTHS không quy định rõ thế nào là “Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tuy nhiên, có thể vận dụng điểm a khoản 1 Điều 58 Bộ Luật Dân Sự về giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) để hiểu người đại diện hợp pháp là: Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu. Hoặc người đại diện theo pháp luật bao gồm: Cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Người giám hộ đối với người được giám hộ (Điều 141 BLDS).
Trong trường hợp có yêu cầu thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định (chỉ định) người đại diện (Điều 140 BLDS). Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (khoản 5 Điều 139 BLDS).
* Bào chữa viên nhân dân;
Là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị cáo. Hiện nay chưa có quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong thực tế hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống. Theo khoản 3 điều 57 của Bộ luật TTHS năm 2003 thì: " Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình ".
Đối với “bào chữa viên nhân dân” thì hệ thống pháp luật hiện hành không có văn bản nào quy định về chế định này, quy định “bào chữa viên nhân dân” là ai và tiêu chuẩn để trở thành một “bào chữa viên nhân dân” là như thế nào. Trong thực tế bào chữa viên nhân dân thường là người của các tổ chức đoàn thể đứng ra bào chữa cho thành viên của tổ chức mình như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ.... Điều kiện để trở thành bào chữa viên nhân dân tuy không được pháp luật quy định nhưng tối thiểu cũng phải đáp ứng được một số điều kiện cơ bản như: là công dân Việt Nam, có tư cách đạo đức tốt, đã thành niên, không bị nhược điểm về thể chất và tâm thần, có năng lực hành vi đầy đủ, có trình độ hiểu biết…vv.
Trong tố tụng hình sự, người bào chữa là người tham gia tố tụng được đặt bên cạnh những người bị buộc tội như bị can, bị cáo. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa luôn luôn gắn liền với quyền của bị can, bị cáo. Khi tham gia tố tụng, người bào chữa có nhiệm vụ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án và đưa ra những chứng cứ, lý lẽ để gỡ tội cho thân chủ mình, cùng thân chủ hợp thành một bên tranh tụng.
Để người bào chữa thực hiện chức năng làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo và giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý BLTTHS năm 2003 đã quy định đầy đủ và cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, cụ thể như sau:
B. Quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Theo điều 19 BLTTHS năm 2003, người bào chữa có quyền bình đẳng với kiểm sát viên trong một vụ án hình sự trong việc đưa ra các tài liệu, chứng cứ ở giai đoạn tranh luận tại phiên tòa nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can theo quy định tại khoản 1 Điều 58 của Bộ luật này. Trong trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKS quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Đặc biệt trong các trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang thì người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
Tại khoản 2 điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có các quyền sau:
Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.
Việc người bào chữa được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn, những người tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Người bào chữa có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.
Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003. Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có các căn cứ quy định tại điều 42 và điều 46 của Bộ luật TTHS và xét thấy việc những người này tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.
Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu: người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa.
Gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam: Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết cảu vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giải thích những vấn đề pháp luật và cũng có thể tác động đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật.
Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Qua việc đọc hồ sơ, tài liệu vụ án, người bào chữa cũng có điều kiện để phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền.
Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa: tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận, người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật TTHS năm 2003. Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
C. Nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Bên cạnh việc bảo đảm các quyền cho người bào chữa khi tham gia tố tụng thì tại khoản 3 Điều 58 của BLTTHS năm 2003 còn quy định nghĩa vụ của người bào chữa, là phải sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị can, bị cáo tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng. Đặc biệt, Bộ luật này còn quy định người bào chữa không được xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật và không được tiết lộ các bí mật về hoạt động điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa...
Người bào chữa trong tố tụng hình sự có những nghĩa vụ nhất định, khoản 3 điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định cho người bào chữa các nghĩa vụ sau:
Nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án. Việc giao nhận tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại điều 95 của bộ luật TTHS năm 2003.
Nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Nghĩa vụ không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can. bị cáo mà mình bào chữa, nếu không có lý do chính đáng.
Nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật; nghĩa vụ không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của tòa án; nghĩa vụ không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa;
Nghĩa vụ không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật (khoản 4 điều 58 Bộ luật TTHS).
2. Thực trạng thực hiện những quy định của Pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa (NBC)
Thực tiễn áp dụng pháp luật tại khoản 4 Điều 102 BLTTHS quy định trong thời hạn hai ngày kể từ ngày ra văn bản kết luận điều tra, cơ quan điều tra phải gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho NBC. Thì cơ quan điều tra chỉ thực hiện quy định này khoảng 10%. Tuy nhiên luật không quy định cơ quan điều tra phải gửi bản kết luận điều ra trong trường hợp đình chỉ vụ án cho NBC. Đây là một thiếu sót chưa có hướng dẫn thi hành chi tiết vấn đề này.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 58 Bộ luật TTHS thì NBC tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để NBC tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Trong trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì NBC tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Để thực hiện được quy định này, một mặt cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện thuận lợi để NBC tham gia mặt khác đối với NBC nhất là đối với NBC là luật sư cần bố trí thời gian và thực hiện đúng các yêu cầu, thông báo của cơ quan tiến hành tố tụng.
Ngoài ra còn kể đến, việc cấp giấy chứng nhận cho NBC là bắt buộc đối với cơ quan tiến hành tố tụng và giấy chứng nhận này phải được lưu trong hồ sơ vụ án như một tài liệu chính thức để tòa án cấp trên kiểm tra tòa án cấp dưới. Thực tiễn xét xử cho thấy, hầu hết các toàn không lưu giấy chứng nhận luật sư trong hồ sơ vụ án nên cũng khó có thể kiểm tra phát hiện những vi phạm về thủ tục tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng về NBC cho bị can, bị cáo.
Một thực trạng nữa đặt ra từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện theo thẩm quyền luật định. Thực tiễn khảo sát giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa hẳn tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để NBC thực hiện các quyền của mình. Trong một số trường hợp nhất là đối với cơ quan điều tra đã nếu những lý do để từ chối không cho NBC tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, thậm chí vụ án đã có kết luận điều tra, không thuộc trường hợp phải giữ bí mật điều tra đối với tội phạm đặc biệt xâm phạm an ninh quốc gia nhưng vẫn không cho NBC tham gia; không ít trường hợp các cơ quan điều tra từ chối để NBC có mặt khi hỏi cung bị can. Những hành động như vậy là xâm phạm quyền của NBC khi tham gia tố tụng. Hi vọng rằng các cơ quan tiến hành tố tụng nghiêm chỉnh chấp hành những quy định của Bộ luật TTHS và tạo điều kiện để NBC thực hiện đầy đủ quyền của họ khi họ tham gia tố tụng.
Theo Điều 19 Bộ luật TTHS thì tại phiên tòa NBC còn có quyền bình đẳng với Kiểm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra các yêu cầu và tranh luận tại phiên tòa. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho NBC thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khác quan của vụ án. Đây không chỉ là một quyền của NBC mà còn là nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng nhưng trên thực tế nguyên tắc này chưa được thực hiện một cách đầy đủ với đúng nghĩa của nó, biểu hiện của việc vi phạm nguyên tắc này theo các xu hướng trái ngược nhau. Có trường hợp tại phiên tòa, Kiểm sát viên không tôn trọng NBC như: nhận xét thái độ của NBC, nhắc nhở NBC khi họ đặt những câu hỏi đối với người tham gia tố tụng, thậm chí dùng những lời lẽ có tính chấn thóa mạ, quát nạt khi không đưa ra được những chứng cứ sắc bén để bác bỏ luận điểm của NBC. Ngược lại, cũng không ít trường hợp NBC (mà chủ yếu là luật sư) đã không hiểu được nội dung của quyền bình đẳng với Kiểm sát viên trước tòa án nên đã có những yêu cầu trái với quy định của Bộ luật TTHS như đòi ngồi ở vị trí như Kiểm sát viên, đòi bình đẳng với Kiểm sát viên trong tất cả những hoạt động tố tụng, trong khi trình bày lời bào chữa của mình đã không đưa ra những chứng cứ gỡ tội cho bị cáo hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà lại nhận xét thái độ, tác phong của Kiểm sát viên…
So với BLTTHS năm 1998 thì BLTTHS năm 2003 quy định thêm một số quyền, đồng thời quy định thêm một số nghĩa vụ đối với NBC tại khoản 3 Điều 58. Thực tiễn hoạt động bào chữa của NBC cho thấy, các quy định trên của Bộ luật TTHS được NBC nếu thực hiện đúng sẽ góp phần cùng với cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC. Tuy nhiên, cũng còn không ít các trường hợp, do không hiểu thấu đáo quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định nên NBC đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi làm nhiệm vụ bào chữa cho NBTG, BCBC. Có NBC mặc dù pháp luật đã quy định NBC không được tiết lộ bí mật mà mình biết được khi làm nhiệm vụ, nếu tiết lộ bí mật điều tra thì tùy trường hợp phải chịu trách nhiệm theo các Điều 263, 264, 286, 287, 327, 328 BLHS, nhưng có nhiều trường hợp những bí mật nhà nước, bí mật điều tra, bí mật công tác và cả bí mật về đời tư mà người tham gia tố tụng yêu cầu giữ kín mà vẫn bị NBC tiết lộ thậm chí dùng nó để gỡ tội cho bị can, bị cáo mà mình nhận bào chữa . Ngược lại có NBC đã sử dụng mọi biện pháp, kể cả những biện pháp mà pháp luật cấm để biện bách, cố tình đổi trắng thay đen vì những khoản thù lao mà thân chủ trả rất hậu. Có NBC “xui” bị cáo giả vờ ốm để trì hoãn phiên tòa, hay vừa mới khai mạc phiên tòa, không cần xin phép chủ tọa phiên tòa đã lớn tiếng tuyên bố “Tòa án đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng pháp luật”, có NBC cố tình không có mặt tại phiên tòa hoặc nếu ra những lý do không chính đáng để xin hoãn phiên tòa như: vì phải bào chữa ở vụ án khác không về kịp hoặc vì chưa có thời gian nghiên cứu hồ sơ… Có trường hợp có NBC lợi dụng mối quan hệ với Tòa án để tác động nhằm làm giảm trách nhiệm cho bị cáo do mình bào chữa mà không sử dụng các biện pháp để làm sáng tỏ các tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội hoặc làm giảm trách nhiệm cho bị can, bị cáo.
Ví dụ như “trường hợp ông Hà Công Tuấn - nguyển thẩm phán TAND tỉnh Quảng Ninh và ông Vũ Ngọc Sơn – nguyên cán bộ công an tỉnh Quảng Ninh nhận hối lộ 200 triệu đồng cảu gia đình bị can Lý Chính Trung (trong vụ án buôn bán tân dược do Công an tỉnh Quảng Ninh khởi tố điều tra) để chạy án cho bị can này. Điều đáng nói ở đây là ông Nguyễn Ngọc Chính – giám đốc công ty luật Chính Tâm (nơi gia đình bị cáo thuê bào chữa) đã nhận chạy án và chỉ đạo luật sư Trần Thị Ngọc Tú yêu cầu gia đình chuẩn bị tiền để giải quyết công việc.
Trong trường hợp bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố hoặc bị đưa ra xét xử về tội mà khung hình phạt đối với tội ấy là tử hình hoặc bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần thì tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử NBC cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chúc thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức mình.Việc phân công văn phòng luật sư cử NBC cho bị cáo là nghĩa vụ của đoàn luật sư và của văn phòng luật sư. Thực tiễn xét xét có một số tòa án đã hiểu không đúng quy định này, nên trong một số trường hợp lúng túng trong việc yêu cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử NBC cho bị cáo.
Ví dụ, trong vụ án Trương Văn Cam, TAND TP Hồ Chí Minh yêu cầu Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh phân cử NBC cho bị cáo Trương Văn Cam nhưng Đoàn luật sư thành phố không phân công văn phòng luật sư cử NBC cho bị cáo, mà chỉ là thành viên của công ty luật hợp danh, nêu TAND TP Hồ Chí Minh không chấp nhận để luật sư này bào chữa cho Năm Cam.
Thực tế, hầu hết các vụ án mà bị can bị cáo là người chưa thành niên thì không có trường hợp nào NBC là Bào chữa viên nhân dân. Hiện nay cũng chưa có quy chế nào quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong thực tế hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống nhất điều kiện để trở thành bào chữa viên nhân dân cũng không được quy định. Trong khi đó, xã hội có nhiều người có trình độ pháp lý có hiểu biết về công việc bào chữa nhưng chưa được kết nạp vào đoàn luật sư và họ lại được bị can, bị cáo nhờ bào chữa vậy họ có được tòa án công nhận và cấp giấy chứng nhận cho họ không? Mới đây, TAND tỉnh Quảng Ninh đã phải hoãn xử vụ tiêu cực đất đai tại TP Móng Cái vì không chấp nhận ông Nguyễn Thanh Văn (nhận bảo vệ cho hai bị cáo) tham gia tố tụng với tư cách bào chữa viên nhân dân. Như vậy, vấn đề bào chữa viên nhân dân vẫn bỏ ngỏ mà chưa thực sự được áp dụng trên thực tế Xem.
3. Vậy đâu là phương hướng chung cho việc sửa đổi, hoàn thiện những quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa?
Trước tiên, cần xây dựng, đào tạo đội ngũ luật sư không chỉ phát triển về quy mô mà còn phải giỏi về nghiệp vụ và quan trọng hơn hết có đạo đức nghề nghiệp
Nâng cao trách nhiệm của các cá nhân và cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bằng cách đề ra các chế tài bắt buộc khi có sự vi phạm nguyên tắc này.
Mở rộng hơn nữa các quyền và tương ứng là các nghĩa vụ của người bào chữa theo hướng các quyền thì chủ động hơn, linh hoạt hơn nhưng đồng thời các nghĩa vụ cũng phải chặt chẽ hơn và cũng phải có các chế tài nghiêm khắc khi vi phạm nghĩa vụ đó.
Cuối cùng là nâng cao nhận thức và trình độ hiểu biết Pháp luật của người dân để họ có thể tự chủ động nắm bắt quyền bào chữa cho bản thân mình.
III. Kết luận
Với những quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong bộ luật tố tụng hình sự 2003 và việc chấp hành đúng các quy định này sẽ góp phần làm cho việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đảm bảo dân chủ, công bằng hơn.
Để người bào chữa thực hiện chức năng làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc giảm trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo về mặt pháp lý các cấp lãnh đại, Chính quyền liên quan phải chung tay tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thực hiện được quyền và nghĩa vụ mà luật Tố tụng hình sự đã quy định cho người bào chữa. Qua đó, góp phần bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Xem bài viết tương tự tại https://khotangkienthuc.edu.vn/bai-viet/phap-luat-ve-toi-am-pham-quyen-so-huu-cong-nghiep-ek6br8yx6t
Và